Cơ cấu ngữ nghĩa Từ vựng tiếng Việt

Đại bộ phận các từ trong tiếng Việt có ba thành tố nghĩa: nghĩa sở chỉ, nghĩa sở biểunghĩa kết cấu. Tuy nhiên cũng có những từ chỉ có một hoặc hai loại nghĩa. Ngoài ra, cũng có thể chia các từ về mặt nghĩa thành từ tự nghĩa (bản thân ý nghĩa độc lập) và từ trợ nghĩa (ý nghĩa chỉ bộc lộ rõ khi kết hợp). Nhìn chung có thể phân loại các từ tiếng Việt về mặt nghĩa như sau:

Tự nghĩaTrợ nghĩa
Có nghĩa sở chỉ, sở biểu và kết cấunhà, đẹp, đi (kiểu 1)
Có nghĩa sở chỉ và kết cấusẽ, tuy, với (kiểu 2)
Có nghĩa sở biểu và kết cấuquốc, thủy, hỏa (kiểu 3)búa (chợ búa), lẽo (lạnh lẽo) (kiểu 4)
Có nghĩa kết cấubù, nhìn, bồ, hóng (kiểu 5)

Từ kiểu 3 thường là các từ Hán-Việt.

Hiện tượng đa nghĩa

Cũng như nhiều ngôn ngữ trên thế giới, hiện tượng đa nghĩa trong tiếng Việt cũng có những đặc thù riêng.

Để biểu thị khái niệm mới, tiếng Việt có thiên hướng tạo ra các đơn vị từ vựng mới hơn là phát triển nghĩa của từ vựng có từ trước, đa phần là phát triển các đơn vị từ vựng có hai âm tiết. Số lượng từ vựng có nhiều nghĩa cũng như số nghĩa trong từ đa nghĩa của tiếng Việt đều thấp hơn so với nhiều ngôn ngữ khác.

Hiện tượng đa nghĩa chủ yếu xảy ra ở các từ mà ít ở các ngữ. Các ngữ đa nghĩa thông thường có gốc Hán.

Các từ kiểu 2 (các hư từ) và 4, 5 (đơn thuần nghĩa kết cấu) không có hiện tượng nhiều nghĩa; hiện tượng nhiều nghĩa chỉ xuất hiện ở các từ kiểu 1 (độc lập về nghĩa, hoạt động tự do) và kiểu 3 (độc lập về nghĩa, hoạt động hạn chế). Từ trước đến nay, các nhà Việt ngữ học chủ yếu chú ý hiện tượng nhiều nghĩa của các từ kiểu 1 mà ít chú ý các từ kiểu 3. Ví dụ hiện tượng đa nghĩa đối với các từ kiểu 3:

  • Bình (bằng phẳng): bình dã, bình nguyên, bình địa, bình đẳng...
  • Bình (yên ổn): bình tâm, bình an, ...
  • Bình (thường): bình dị, bình minh, bình thường, bình phục...

Sự mở rộng và thu hẹp ý nghĩa của từ vựng tiếng Việt góp phần hình thành các thủ pháp nghệ thuật văn học như ẩn dụ, hoán dụ, ngoa dụ, uyển ngữ, nhã ngữ,...

Hiện tượng đồng âm

Hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt phổ biến hơn các ngôn ngữ Ấn-Âu do âm tiết tiếng Việt gồm 5 thành phần: âm đầu, vần (âm chính, âm cuối và âm đệm) và thanh điệu[3]. Tuy nhiên, không như các ngôn ngữ Ấn-Âu, vì tiếng Việt không biến hình nên chỉ có một loại đồng âm hoàn toàn.

Với quy luật kết hợp ngữ âm của mình, tiếng Việt có thể tạo ra khoảng trên 20.000 âm tiết khác nhau, trong thực tế mới chỉ sử dụng khoảng 6000. Theo Karlgren, số lượng âm tiết tiếng Hán sử dụng chỉ bằng một phần mười của tiếng Việt nên hiện tượng đồng âm trong tiếng Hán phổ biến hơn rất nhiều so với tiếng Việt.

Có 5 kiểu từ khác nhau về nghĩa như trên, nên giữa các kiểu từ có thể xảy ra 14 kiểu quan hệ đồng âm:

  • Kiểu 1-1: ca1: đồ đựng nước uống; ca2: trường hợp (gốc Pháp cas);
  • Kiểu 1-2: vả1: tát mạnh vào mặt; vả2: vả lại;
  • Kiểu 1-3: yếu1: kém về mặt nào đó; yếu2: quan trọng (như trong yếu điểm);
  • Kiểu 1-4: búa1: một loại dụng cụ; búa2: trong chợ búa;
  • Kiểu 1-5: 1: các loại cây họ Cà; 2: trong cà phê;
  • Kiểu 2-2: 1: do (tờ báo mà tôi mua.); 2: nếu (nếu mà biết nó sẽ mượn.);
  • Kiểu 2-3: giá1: nếu, giá mà; giá2: đổ cho (giá họa);
  • Kiểu 2-4: càng1: biểu thị mức độ tăng; càng2: trong cũ càng;
  • Kiểu 2-5: 1: dầu, dẫu; 2: trong bú dù (con khỉ);
  • Kiểu 3-3: 1: đói (như trong cơ cực); 2: máy (như trong phi cơ);
  • Kiểu 3-4: tác1: làm (như trong tác chiến); tác2: như trong tan tác;
  • Kiểu 3-5: thâm1: sâu (như trong thâm hiểm); thâm2: như trong lâm thâm (tiếng mưa rơi);
  • Kiểu 4-4: búa1: trong chợ búa; búa2: trong hóc búa;
  • Kiểu 4-5: lác1: trong khoác lác; lác2: trong lác đác;

Nói chung, hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt rất đa dạng nhưng ít gây hiểu lầm, sự hiểu lầm có thể xảy ra ở trường hợp kiểu 1-3 (từ thuần Việt đồng âm với từ Hán-Việt) hoặc kiểu 3-3 (từ Hán-Việt đồng âm với từ Hán-Việt) do các từ kiểu 3 (Hán-Việt) không hoạt động tự do nhưng nghĩa của chúng thường cộng hưởng với nghĩa của từ kết hợp với chúng.

Hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt thường thấy trong chơi chữ, ví dụ trong câu đối: da trắng vỗ bì bạch - rừng sâu mưa lâm thâm thì bì bạch có nghĩa là da trắng đồng thời là từ tượng thanh, lâm thâm nghĩa là rừng sâu đồng thời cũng là từ tượng thanh.

Hiện tượng đồng nghĩa

Hiện tượng đồng nghĩa trong tiếng Việt chỉ xảy ra ở những từ độc lập về nghĩa, tức là những từ thuộc kiểu 1 và kiểu 3, có thể nói là những từ thuần Việt và từ Hán-Việt. Có ba loại đồng nghĩa sau:

  • Từ thuần Việt đồng nghĩa với từ thuần Việt (1-1). Đây là kiểu đồng nghĩa này được bàn đến nhiều nhất.
  • Từ thuần Việt đồng nghĩa với từ Hán-Việt (1-3). Kiểu đồng nghĩa này cũng rất phổ biến trong tiếng Việt. Thông thường từ thuần Việt hoạt động tự do còn từ Hán-Việt hoạt động hạn chế (tức là chỉ hoạt động trong sự cấu tạo của một số ngữ nhất định) và thường mang ý nghĩa khái quát, mờ ảo hơn[4]. Ví dụ: cỏ và thảo (trong thảo dược); một và độc (trong độc lập); nhà và gia (trong gia đình);...
  • Từ Hán-Việt đồng nghĩa với từ Hán-Việt (3-3). Kiểu đồng nghĩa này (với các yếu tố Hán-Việt hạn chế) chỉ đóng vai trò cấu tạo các đơn vị từ vựng lớn hơn từ. Ví dụ bằng và hữu đều mang nghĩa "bạn", nhưng cách kết hợp khác nhau: bằng tham gia cấu tạo các ngữ bằng môn, bằng liêu,...; hữu tham gia cấu tạo các ngữ hữu nghị, hữu thiện, hữu tình,...

Hiện tượng trái nghĩa

Các từ trái nghĩa trong tiếng Việt thể hiện sự tương phản về nghĩa trên các khía cạnh phản ánh phẩm chất của đối tượng, ví dụ về thời gian (sớm - muộn, sáng - tối, nhanh - chậm,...); vị trí (trên - dưới, ngoài - trong, trước - sau,...); không gian (đông - tây; ra - vào, xa - gần,...)...

Có hai kiểu đối lập chủ yếu trong từ trái nghĩa tiếng Việt:

  • Sự đối lập về mức độ của các thuộc tính, phẩm chất của sự vật, hiện tượng như: cao - thấp, già - trẻ, lớn - bé,...
  • Sự đối lập loại trừ nhau, ví du: mua - bán, ra - vào, lên - xuống,...

Các từ trái nghĩa tiếng Việt đa phần gắn liền với tính cân xứng, tức là dung lượng ngữ nghĩa của chúng phải tương đương nhau, ví dụ nhỏ trái nghĩa với to; khổng lồ với tí hon; chứ nhỏ không được coi nhỏ là trái nghĩa của khổng lồ... Tuy nhiên, một từ vẫn có thể tham gia vào nhiều cặp trái nghĩa, ví dụ: mở - đóng (cửa); mở - gấp (vở); mở - đậy (nắp); mở - hạ (màn);...

Đối với từ nhiều nghĩa, mỗi nghĩa cũng có thể có một hoặc vài từ trái nghĩa, ví dụ: cao - thấp (chiều cao); cao - hạ (giá cả);...

Các đơn vị trái nghĩa có thể cấu tạo để tạo thành các cặp từ trái nghĩa, ví dụ: ăn mặn - ăn nhạt; ăn mặn - ăn chay...

Hiện tượng từ tương tự

Trong tiếng Việt tồn tại phổ biến những nhóm từ gần gụi nhau về mặt âm thanh và ý nghĩa. Ví dụ: bắc và bấc giống nhau ở âm đầu và gió bắc hay gió bấc như nhau, nhưng không hoàn toàn giống nhau vì không thể thay thế phương bắc bằng phương bấc; hoặc các nhóm từ có vần -ép tuy ý nghĩa khác nhau nhưng đều mô phỏng tính chất "sát nhau": dẹp, bẹp, xẹp, lép, khép,... Những nhóm từ này gọi là từ tương tự.

Căn cứ vào ngữ âm của từ ngữ, có thể chia từ tương tự trong tiếng Việt thành ba loại:

  • Trùng nhau ở âm đầu: bám, bấu, bíu; buộc, bó, băng; chầu, chờ, chực; khênh, khiêng, khuân; phòi, phì, phọt, phun;...
  • Trùng nhau ở phần vần: băm, bằm, vằm; bấu, cấu; bớt, ngớt; đớp, tợp, hớp; cái, mái, nái, gái;...
  • Trùng nhau ở cả âm đầu và phần vần: băm, bằm; lui, lùi; xoăn, xoắn; đớp, đợp; vấp, vập;...

Căn cứ vào ngữ nghĩa của từ ngữ, có thể chia hiện tượng từ tương tự trong tiếng Việt thành ba loại:

  • Có quan hệ tương đồng về nghĩa, ví dụ mồm, miệng, mép, mỏ, môi, mõm, miệng, mồi (mồm dùng cho người, miệng như trong súc miệng, mỏ như trong mỏ vịt,...); hoặc như cái, mái, gái, nái để chỉ giống cái nhưng cách dùng khác nhau.
  • Có quan hệ tương cận về nghĩa: bú và vú, chêm và nêm, đan và nan, đệm và nệm,... (quan hệ hành động - đối tượng); gạn và cạn, giết và chết; đập và giập, thắt và chặt,... (quan hệ hành động - kết quả)...
  • Có quan hệ tương đồng về tính chất tượng hình, tượng thanh: bét, bẹt, dẹt, kẹt, tẹt,...; bức bối, nhức nhối, bực bội, tức tối,...; khật khưỡng, ngất ngưởng, vật vưỡng, vất vưởng,... lúc lắc, trúc trắc, trục trặc,...